Khu du lịch Quần thể Di tích Cố đô Huế
Quần thể di tích cố đô Huế do triều Nguyễn xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc thành phố Huế và một vài vùng phụ cận.
Tại Kỳ họp lần thứ 17 của Ủy ban Di sản Thế giới, Côlômbô (1993), UNESCO đã quyết định công nhận quần thể di tích Huế là tài sản chung của nhân loại. Đây là một sự kiện quan trọng trong lịch sử văn hóa Việt Nam – lần đầu tiên một di sản của Việt Nam được chọn vào danh mục Di sản thế giới, khẳng định giá trị mang tính toàn cầu của Quần thể di tích cố đô Huế.
Kinh thành Huế
Kinh thành (vòng thành ngoài) của Huế được xây dựng dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng, bắt đầu vào mùa hè năm 1805 và kết thúc vào năm 1832.
Dựa vào nguyên tắc địa lý phong thủy của phương Đông và thuyết Âm dương, Ngũ hành của Dịch học, các nhà kiến trúc thời ấy đã bố trí kinh thành quay mặt về phía nam, chọn núi Ngự Bình làm tiền án (bình phong) và cồn Hến, cồn Dã Viên trên sông để làm thế "tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ" chầu vào trước mặt kinh thành.
Tại đây các vua triều Nguyễn đã cho xây dựng khá nhiều thành quách, cung điện và các công trình của hoàng gia. Kinh thành hình vuông với diện tích khoảng 5km2, chu vi gần 10km, cao 6,6m, dày 21m, gồm có 10 cửa để ra vào. Xung quanh và ngay trên thành có thiết lập 24 pháo đài để phòng thủ, ngoài ra còn có một cửa phụ thông với Trấn Bình đài gọi là Thái Bình môn.
Hoàng thành (Đại nội)
Nằm ở khoảng giữa kinh thành là nơi đặt các cơ quan cao nhất của chế độ quân chủ và là nơi thờ tự các vua chúa đã quá cố. Hoàng Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600m, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ với bốn cửa ra vào, riêng Ngọ Môn chỉ dành để cho vua đi. Đại Nội gồm có hơn 100 công trình kiến trúc đẹp được chia thành nhiều khu vực:
– Từ Ngọ Môn đến điện Thái Hòa (Ngọ Môn, điện Thái Hòa, sân Đại Triều): nơi cử hành các lễ lớn của triều đình.
– Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, Thế miếu và điện Phụng Tiên: nơi thờ các vua chúa nhà Nguyễn.
– Khu dành riêng cho hoàng thái hậu (mẹ vua), thái hoàng thái hậu (bà nội của vua): cung Diên Thọ, cung Trường Sinh.
– Khu dành riêng cho nhà vua và gia đình: Tử cấm thành.
– Phù Nội vụ: nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng cho hoàng gia.
– Vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi các hoàng tử học tập và chơi đùa.
Tử cấm thành
Đây là vòng thành nằm trong Hoàng thành ngay sau lưng điện Thái Hòa. Tử cấm thành được xây dựng năm 1804. Thành cao 3,72m xây bằng gạch, dày 0,72m, chu vi khoảng 1230m, phía trước và phía sau dài 324m, trái phải hơn 290m, bao gồm gần 40 công trình kiến trúc lớn nhỏ và có bảy cửa ra vào.
Lăng tẩm các vị vua triều Nguyễn
Bên cạnh kinh thành Huế, khu lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn cũng là những di tích quan trọng của đất Thần kinh. Bảy lăng, mỗi lăng mang một sắc thái riêng nhưng đều là những kỳ công tạo tác của con người phối hợp với cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ tươi đẹp và thơ mộng của xứ Huế.
– Lăng Gia Long(Thiên Thọ Lăng)
Vị trí: nằm trong dãy núi Thiên Thọ, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, cách trung tâm thành phố Huế 16km.
Cách đi: đường thủy: thuê thuyền từ sông Hương dọc đường Lê Lợi đi khoảng 18km sẽ đến lăng; đường bộ: bắt đầu từ cầu Trường Tiền, theo đường Lê Lợi về phía tây bạn sẽ gặp đường Điện Biên Phủ, hết đường Điện Biên Phủ bạn gặp đàn Nam Giao thì rẽ phải vào đường Lê Ngô Cát. Chạy thẳng cho đến khi gặp đường Huyền Trân Công Chúa thì rẽ trái rồi qua bến đò Kim Ngọc là đến khu Thiên Thọ lăng.
Lăng Gia Long (Thiên Thọ Lăng) được xây dựng từ năm 1814 đến 1820. Đích thân vua Gia Long đã quan sát, quyết định vị trí quy hoạch và chỉ đạo việc thiết kế cũng như giám sát tiến độ thi công. Toàn bộ khu lăng là một quần sơn với 42 ngọn đồi lớn nhỏ có tên gọi riêng, trong đó Đại Thiên Thọ là ngọn lớn nhất được chọn làm tiền án và là tên gọi chung cho cả quần sơn này: Thiên Thọ sơn. Tổng thể lăng được chia làm ba khu vực: chính giữa là lăng mộ vua và Thừa Thiên Cao hoàng hậu. Bên phải lăng là khu vực tẩm điện mà điện Minh Thành là trung tâm – nơi thờ hoàng đế và hoàng hậu thứ nhất. Bên trái khu lăng là Bi đình, nay chỉ còn lại tấm bia lớn ghi bài "Thánh đức thần công" của vua Minh Mạng soạn, ca ngợi vua cha, được chạm khắc tinh xảo.
– Lăng Minh Mạng (Hiếu lăng)
Vị trí: thuộc địa phận núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 12km.
Cách đi: bắt đầu đi từ cầu Trường Tiền, theo đường Lê Lợi về phía tây bạn sẽ gặp đường Điện Biên Phủ, hết đường Điện Biên Phủ bạn gặp đàn Nam Giao thì rẽ phải vào đường Lê Ngô Cát. Chạy thẳng cho đến khi gặp đường Huyền Trân Công Chúa thì rẽ trái. Đi khoảng vài cây số nữa bạn sẽ đến lăng Minh Mạng.
Lăng được khởi công xây dựng vào tháng 9/1840 và được vua Thiệu Trị tiếp tục xây dựng hoàn tất vào năm 1843.
Lăng Minh Mạng là một mô hình kiến trúc quy mô gồm 40 công trình lớn nhỏ; bao gồm cung điện, đền miếu và đài tạ… được bố trí trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700m từ Đại Hồng môn ở ngoài cùng tới chân tường của La thành sau mộ vua.
Lăng Minh Mạng với hai hồ và kiến trúc trang hoàng tuyệt đẹp, là một trong những lăng tẩm uy nghi, đường bệ nhất trong các lăng tẩm của vua nhà Nguyễn.
– Lăng Thiệu Trị (Xương lăng)
Vị trí: thuộc làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, cách trung tâm thành phố Huê khoảng 8km.
Cách đi: đi về hướng lăng Minh Mạng. Lăng Thiệu Trị nằm trên đường Huyền Trân Công Chúa và đối diện với sông Hương.
Sau khi vua cha mất, vua Tự Đức chọn thế đất "sơn thủy, chỉ giao" này xây dựng lăng mộ cho vua cha. Ngày 11/2/1848, lăng được khởi công xây dựng và chỉ trong 10 tháng đã hoàn thành.
Cấu trúc lăng cũng có hai phần lăng và tẩm. Về mặt kiến trúc, lăng Thiệu Trị kế thừa phong cách kiến trúc của lăng Gia Long và Minh Mạng nhưng có phần đơn sơ hơn. Song phần trang trí mỹ thuật lại có phần nổi trội với nghệ thuật chạm khắc đạt đến mức độ hoàn mỹ của nghệ nhân Huế và đặc biệt nghệ thuật pháp lam cũng bắt đầu được sử dụng nhiều trong khu vực điện thờ.
– Lăng Tự Đức (Khiêm lăng)
Vị trí: phường Thủy Xuân, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố khoảng 4km.
Cách đi: đi về hướng lăng Minh Mạng, theo đường Huyền Trân Công Chúa đến ngã ba đồi Vọng Cảnh thì rẽ tay trái.
Lăng được xây dựng từ năm 1864 và đến năm 1867 về cơ bản hoàn thành. Tổng thể kiến trúc lăng nằm trong một vòng La thành rộng khoảng 12ha, gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ trải thành những cụm trên những thế đất cao, thấp hơn nhau chừng 10m. Bố cục khu lăng gồm hai phần chính, trên hai trục song song với nhau lấy núi Giáng Khiêm ở phía trước làm Tiền án, núi Dương Xuân làm Hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố Minh đường.
– Lăng Dục Đức (An lăng)
Vị trí: phường An Cựu, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố khoảng 2km.
So với các lăng tẩm khác của các vua nhà Nguyễn, lăng Dục Đức có kiến trúc đơn giản và khiêm tốn hơn. Khu lăng mộ hình chữ nhật có diện tích 3445m2, bên trong không có Bi đình và tượng đá. Đây cũng là nơi yên nghỉ của vua Thành Tháo và Duy Tân.
– Lăng Đồng Khánh (Tư Lăng)
Vị trí: phường Thủy Xuân, thành phố Huế, cách lăng Tự Đức khoảng 1km.
Cách đi: đi về hướng lăng Tự Đức, sau đó chạy thẳng theo đường đất vào phía trong khoảng 1km sẽ gặp lăng Đồng Khánh.
Sau khi lên ngôi (tháng 2/1888), Đồng Khánh cho xây dựng bên lăng mộ của vua cha ngôi điện đặt tên là Truy Tư để thờ cúng cha. Công việc đang triển khai thì vua Đồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành Thái lên kế vị cho đổi tên điện Truy Tư tành Ngưng Hy để thờ vua Đồng Khánh. Thi hài nhà vua được mai táng đơn giản trên quả đồi có tên là Hộ Thuận Sơn, cách điện Ngưng Hy 30m về phía tây. Toàn bộ khu lăng tẩm được gọi là Tư lăng. Năm 1916, con trai của Đồng Khánh lên ngôi (vua Khải Định) đã cho tu sửa điện thờ, xây cất lăng mộ cho cha mình. Toàn bộ khu lăng mộ từ Bái đình, Bi đình đến Bửu thành và Huyền cung đều được thiết kế dưới thời Khải Định, đến tháng 7/1917 mới xong phần cơ bản và đến năm 1923 thì hoàn tất.
– Lăng Khải Định (Ứng lăng)
Vị trí: xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, cách thành phố Huế 10km.
Vua Khải Định lên ngôi năm 1916, là vị vua thứ 12 của triều Nguyễn và là người cuối cùng xây dựng lăng tẩm – chuẩn bị nơi yên nghỉ vĩnh viễn của một ông vua.
Lăng Khải Định (Ứng lăng) được xây dựng trên triền núi Châu CHữ (còn gọi là Châu Ê) cách Huế 10km. Lăng khởi công ngày 4/9/1920 và kéo dài trong 11 năm mới hoàn thành.
Vua Khải Định cử người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói ác đoa, sang Trung Quốc, Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh để thiết kế công trình. So với các lăng trong hệ thống lăng tẩm ở Huế, lăng Khải Định có diện tích nhỏ (117×48,5m) nhưng rất công phu và tốn nhiều thời gian. Nó là kết quả hội nhập của nhiều dòng kiến trúc Á, Âu, Việt Nam; cổ điển và hiện đại. Tổng thể của lăng là một khối nổi hình chữ nhật vươn cao tới 127 bậc.
Chùa Thiên Mụ
Vị trí: đường Nguyễn Phúc Nguyên, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố khoảng 4km. Chùa Thiên Mụ, còn được gọi là chùa Linh Mụ, được chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1601.
Truyền thuyết về chùa Thiên Mụ
Khi Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên phía đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại. Hỏi ra mới biết, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn (núi Thiên Mụ). Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Ông cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là Thiên Mụ tự (chùa Thiên Mụ).
Năm 1665, chúa Nguyễn Phú Tần cho trùng tu chùa. Năm 1710, chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc Đại Hồng Chung (cao 2,5m, đường kính 1,4m, nặng 2052kg). Năm 1715, chúa lại cho dựng thêm một tấm bia thành cao 2,6m, rộng 1,25m đặt trên lưng một con rùa làm bằng đá cẩm thạch dài 2,2m, rộng 1,6m.
Hai công trình kiến trúc chính của chùa là tháp Phước Duyên và điện Đại Hùng. Tháp Phước Duyên hình bát giác cao 7 tầng, 21m, mỗi tầng thờ một đức Như Lai, tầng cao nhất thờ đức Thế Tôn; điện Đại Hùng là ngôi điện chính trong chùa, có kiến trúc nguy nga, đồ sộ; ngoài bức tượng Phật bằng đồng trong định còn có vô số tượng và một khánh đồng đúc năm 1677; một bức hoành phi bằng gỗ được sơn son thếp vàng do tự tay chúa Nguyễn Phúc Chu đề tặng năm 1714.
Từ ngày xây dựng cho đến nay ngôi chùa đã được trùng tu 8 lần (1665, 1714, 1815, 1831, 1844, 1895, 1907, 1957).
Đáng chú ý, ở trong khuôn viên chùa còn lưu giữ chiếc xe gắn liền với sự kiện nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính sách hà khắc đối với tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Thời gian tốt nhất để tham quan chùa Thiên Mụ là vào sáng sơn, khi cac đoàn khách du lịch chưa đến, lúc này bạn hoàn toàn có thời gian để hòa mình với không gian thanh tịnh, trầm mặc và suy tư của ngôi chùa độc đáo bên cạnh sông Hương. Vào buổi trưa cũng là lúc vắng khách (12-13 giờ) và bạn sẽ chọn được cho mình thời điểm đẹp của xứ Huế nhất là thời điểm mùa hè (tháng 5 đến tháng 7) trời thường nắng rực rỡ, xanh thẳm và rất phù hợp cho việc chụp hình. Đứng từ chùa Thiên Mụ nhìn xuống dòng sông Hương lững lờ trôi xanh biếc đối với màu xanh thẳm của bầu trời, cảnh sắc vô cùng đẹp mắt và thơ mộng.