Tham luận của đồng chí Y Thanh Hà Niê Kđăm, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương

28/01/2021 | Mai Đức Thạch | 455 xem

TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG;
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Tham luận của đồng chí Y Thanh Hà Niê Kđăm, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng,
Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương

Tham luận của đồng chí Y Thanh Hà Niê Kđăm, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương tại Đại hội XIII

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,

Kính thưa Đoàn Chủ tịch,

Kính thưa các đồng chí đại biểu Đại hội!

Đoàn đại biểu Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương xin bày tỏ sự nhất trí cao với các văn kiện của Đại hội. Tại diễn đàn trọng thể này, được sự nhất trí của Đoàn Chủ tịch, chúng tôi xin trình bày tham luận với chủ đề “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” từ thực tiễn của Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương, nhằm minh hoạ và góp phần làm rõ thêm nội dung các văn kiện của Đại hội.

Kính thưa Đại hội,

Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương bao gồm 35 đảng bộ các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng, đơn vị với 1.101 tổ chức cơ sở đảng, 147 đảng bộ bộ phận, 5.606 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở, gần 82 nghìn đảng viên và hơn 720 nghìn người lao động trong các doanh nghiệp thuộc Khối. Các đảng bộ trực thuộc Đảng bộ Khối được tổ chức theo 3 mô hình: đảng bộ toàn doanh nghiệp (11 đảng bộ); đảng bộ công ty mẹ, hội sở chính ngân hàng mở rộng (22 đảng bộ) và đảng bộ cơ quan (02 đảng bộ). Đảng ủy Khối là cấp ủy trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương, có đặc thù không có chính quyền cùng cấp; các tổ chức đảng, đảng viên trong Đảng bộ Khối hoạt động rộng khắp trong toàn quốc và một số ở nước ngoài; tổ chức đảng trong các đơn vị thành viên của tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng, đơn vị chủ yếu thuộc Đảng bộ Khối, một số tổ chức đảng còn lại trực thuộc cấp ủy địa phương. Các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối giữ vị trí then chốt, chủ lực trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là công cụ để Đảng và Nhà nước điều tiết, ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các chương trình an sinh xã hội.

Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những biến động khó đoán định của thị trường và áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài và các thành phần kinh tế trong nước, song bằng quá trình đổi mới, cơ cấu lại doanh nghiệp, hầu hết các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại nhà nước trong Khối Doanh nghiệp Trung ương vẫn hoạt động hiệu quả, thể hiện được vai trò nòng cốt, dẫn dắt và bảo đảm giữ vững một số cân đối lớn của nền kinh tế, có đóng góp quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, ngân hàng trong Khối còn bảo đảm là nguồn thu quan trọng, ổn định cho ngân sách nhà nước với tỷ trọng khoảng 16,5%. Kết quả sản xuất kinh doanh từ năm 2016 – 2019: 33 tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng có sự tăng trưởng rất tốt: tổng doanh thu tăng 38% (từ 1.179.549 tỷ đồng lên 1.628.936 tỷ đồng); hiệu quả hoạt động tăng mạnh, với lợi nhuận trước thuế tăng 60,8% (từ 101.242 tỷ đồng lên 162.861 tỷ đồng); nộp ngân sách nhà nước tăng 24% (từ 205.707 tỷ đồng lên 254.907 tỷ đồng), tổng nộp ngân sách 4 năm là 912.293 tỷ đồng; vốn chủ sở hữu không chỉ được bảo toàn mà còn tăng 18,9% (từ 1.250.337 tỷ đồng lên 1.486.591); bảo đảm thu nhập, việc làm cho 725 nghìn lao động.

Kính thưa Đại hội,

Vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ở nước ta trước hết được xác định và định hướng bằng chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nhà nước và sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN. Chủ trương, quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của DNNN trong nền kinh tế đã có những thay đổi qua các kỳ Đại hội của Đảng cùng với quá trình đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng, sự phát triển của nền kinh tế, của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết số 03, Hội nghị Trung ương 2 (khóa VI) xác định nhiệm vụ cơ bản của xí nghiệp quốc doanh là “Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong toàn bộ nền kinh tế, mở rộng quan hệ liên kết với các thành phần kinh tế khác, góp phần tích cực vào việc tổ chức lại sản xuất và cải tạo nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội VII của Đảng. Xí nghiệp quốc doanh đồng nhất với kinh tế quốc doanh. Đến Đại hội VIII của Đảng, thuật ngữ “kinh tế nhà nước” chính thức được sử dụng thay thế cho kinh tế quốc doanh và được hiểu rộng hơn, không chỉ đơn thuần là DNNN mà còn là những nguồn lực vật chất khác do Nhà nước nắm giữ. Theo đó, vai trò của DNNN đã có sự điều chỉnh. Đại hội IX của Đảng xác định “DNNN giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế”. Cụ thể hóa tinh thần Đại hội IX, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) xác định “DNNN là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”; “DNNN giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội X có sự điều chỉnh nhất định về vị trí của DNNN, đó là “xóa bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của DNNN” và “tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích”.Kết luận 50, Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) xác định: “DNNN là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ hỗ trợ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. DNNN “tập trung vào những khâu, công đoạn then chốt của lĩnh vực an ninh, quốc phòng; độc quyền tự nhiên; cung cấp hàng hóa dịch vụ công thiết yếu; và một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ cao có sức lan tỏa lớn”. Nghị quyết số 12, Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) đã nêu rõ hơn vai trò vai trò của DNNN là “một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”; thực hiện “vai trò dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đạo hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”. Đại hội XII của Đảng khẳng định vị trí của DNNN “tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư”.

Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ 2010-2015, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng, cấp ủy đảng trong DNNN chưa cao; có tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát trong công tác cán bộ, trong quản lý, sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn, tài sản và thực hiện một số dự án đầu tư xây dựng, gây hậu quả nghiêm trọng, thiệt hại lớn tiền và tài sản của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến uy tín DNNN.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương và các tổ chức đảng, cấp ủy đảng trực thuộc đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nắm vững và cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy thành tích, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong tình hình mới, khắc phục các dự án thua lỗ và không để xảy ra sai phạm trong đầu tư xây dựng.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, đổi mới, tạo chuyển biến tích cực

Đảng bộ Khối và các tổ chức đảng trực thuộc quán triệt trong cán bộ, đảng viên về, tính cấp bách và thiết thực của việc học tập, trang bị kiến thức lý luận chính trị, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; giữ vững và thực hiện tốt các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đoàn kết thống nhất của Đảng; thực hành dân chủ rộng rãi gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương; đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Nâng cao nhận thức của tổ chức đảng, cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên, người lao động về vị trí, tầm quan trọng của DNNN trong vai trò trụ cột, dẫn dắt nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ công tác xây dựng đảng về chính trị,tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Thực hiện đồng bộ các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Trong giai đoạn 2015 – 2020, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã trở thành việc làm thường xuyên, hằng ngày, được cụ thể hóa bằng những phong trào: thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, đền ơn đáp nghĩa, an sinh xã hội…, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng doanh nghiệp, ngân hàng, đơn vị.

Các cấp uỷ đảng xây dựng và thực hiện nghiêm quy chế làm việc, các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình, vai trò và trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu,…; duy trì nền nếp và cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ; sắp xếp tổ chức bộ máy, kiện toàn tổ chức đảng với cơ cấu lại tổ chức của doanh nghiệp một cách đồng bộ và thống nhất nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả; tiếp nhận, chuyển giao, chia tách, sáp nhập, giải thể tổ chức đảng,… sắp xếp lại DNNN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, khóa XII của Đảng.

Đảng ủy Khối chủ động đề xuất, phối hợp Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu, trình Ban Bí thư ban hành Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 13/02/2017 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của đảng uỷ cấp trên cơ sở trong DNNN và DNNN có vốn chi phối, góp phần đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong DNNN. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc Quy định 69-QĐ/TW, quy chế làm việc, mối quan hệ công tác, tiến hành hợp nhất các cơ quan tham mưu giúp việc của đảng ủy với cơ quan chuyên môn có chức năng, nhiệm vụ tương đồng của doanh nghiệp, ngân hàng để tinh gọn đầu mối tổ chức, giảm cán bộ lãnh đạo, bước đầu nâng cao chất lượng tham mưu, bảo đảm vai trò lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng tại DNNN. Khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức đảng trong DNNN; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên; góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động doanh nghiệp. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, nhất là người đứng đầu có đủ phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành và uy tín cá nhân đáp ứng yêu cầu trong thời gian tới.

Các tổ chức đảng, cấp ủy đảng đã triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) trọng tâm là nhóm nhiệm vụ, giải pháp về công tác chính trị, tư tưởng, đạo đức, tự phê bình và phê bình, về kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, cấp ủy đảng; thực hành dân chủ rộng rãi gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng; triển khai nhiều giải pháp cụ thể nhằm cảnh báo, răn đe, ngăn ngừa các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí. Tạo môi trường và ban hành quy định cụ thể để cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp nâng cao nhận thức, thống nhất hành động và phát huy vai trò nêu gương trong tu dưỡng, rèn luyện tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Thực hiện chặt chẽ, đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng theo Điều lệ Đảng. Cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra 17.367 tổ chức đảng, 33.273 đảng viên; giám sát 8.200 tổ chức đảng, 36.123 đảng viên; qua đó, đã kỷ luật 26 tổ chức đảng và cấp ủy đảng, 1.165 đảng viên. Thực hiện các kết luận kiểm tra của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, toàn Đảng bộ Khối đã có 6 cấp ủy đảng, 15 cán bộ, đảng viên bị kỷ luật với các hình thức.

Công tác dân vận trong Đảng được tăng cường. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được chỉ đạo quyết liệt, dân chủ trong tổ chức đảng được mở rộng. Thực thi nhiều giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam về phẩm chất chính trị, lý tưởng cách mạng, trình độ giác ngộ giai cấp, bản lĩnh giai cấp công nhân và năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân gắn với xây dựng tổ chức Công đoàn trong sạch, vững mạnh. Bên cạnh vai trò là các công cụ vật chất thực hiện các chính sách của Đảng, Nhà nước, các DNNN còn là những tổ chức kinh tế có hệ thống chính trị được tổ chức chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất, với sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh,… được thành lập và hoạt động tích cực, góp phần quan trọng xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp. Lực lượng lao động trong các DNNN luôn có nhận thức và ý thức chính trị cao, bản lĩnh giai cấp công nhân, kiến thức, trình độ tay nghề cũng luôn được quan tâm bồi dưỡng, đào tạo, là nguồn lực quý cho đất nước, cho cách mạng.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Thực tiễn thời gian qua cho thấy, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại nhà nước trong Khối Doanh nghiệp Trung ương luôn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, như: Tài chính – ngân hàng, dầu khí, điện, than, khai khoáng, viễn thông, giao thông vận tải, cung ứng xăng dầu, lương thực,… vừa bảo đảm nền tảng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các ngành kinh tế khác, vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và xuất khẩu.

Trong các lĩnh vực dầu khí, điện, than, các tập đoàn Dầu khí, Điện lực, Than – Khoáng sản là những trụ cột bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng kịp thời nhu cầu tăng trưởng cao, liên tục của nền kinh tế trong suốt những năm qua. Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam bảo đảm cung ứng xăng dầu đến khắp mọi miền đất nước, Tập đoàn Điện lực Việt Nam bảo đảm đưa điện đến 100% số xã, đến cả các đảo xa, đưa chỉ số tiếp cận điện năng của Việt Nam đứng thứ 27/190 quốc gia, vượt trên cả các quốc gia phát triển, giàu có hơn nhiều. Trong lĩnh vực viễn thông, các tập đoàn, tổng công ty như: VNPT, Mobifone là những trụ cột vừa bảo đảm phát triển hạ tầng viễn thông liên lạc hiện đại, cung ứng các dịch vụ viễn thông chất lượng cho xã hội, vừa dẫn dắt sự phát triển của ngành viễn thông – công nghệ thông tin quốc gia theo kịp thế giới, đáp ứng nhu cầu hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.

Trong các lĩnh vực giao thông vận tải, bưu chính,… các DNNN là nòng cốt bảo đảm cung ứng các dịch vụ thiết yếu cho xã hội như đi lại, vận chuyển hàng hoá, bưu phẩm bằng đường hàng không, đường sắt, đường biển đến mọi nơi trên thế giới, mọi vùng miền trong nước, kể cả các thôn, bản vùng sâu, vùng xa hẻo lánh nhất. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tổng công ty Lương thực miền Bắc,… là nòng cốt trong phát triển ngành cao su vàbảo đảm an ninh lương thực, tiêu thụ lúa gạo cho hàng triệu nông dân.

Trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, 4 ngân hàng thương mại nhà nước (Vietcombank, Vietinbank, BIDV, Agribank) với tổng tài sản và dư nợ tín dụng chiếm trên 50% toàn hệ thống ngân hàng, đóng vai trò bảo đảm cung ứng kịp thời nguồn vốn để phát triển kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng là lực lượng tiên phong thực hiện các chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất, tỷ giá nhằm giữ ổn định thị trường tiền tệ và an toàn hệ thống tín dụng – ngân hàng, là công cụ hỗ trợ dẫn dắt thị trường và góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

Các DNNN trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, hàng không,… đều là những đơn vị dẫn đầu ngành về trình độ công nghệ hiện đại, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, nhiều đơn vị đạt mức năng suất và hiệu quả hoạt động vượt trội trong ngành, với tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu rất cao, đạt từ 15 – 35%/năm.

Trong các thời điểm đất nước gặp khó khăn do các biến động từ môi trường quốc tế hay do thiên tai, dịch bệnh, các DNNN luôn là công cụ mạnh để Nhà nước, Chính phủ điều tiết, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, xã hội trong nước. Trong năm 2020, cùng cả nước chống đại dịch Covid-19, các DNNN trong Khối đã thực hiện các nhiệm vụ giải cứu đồng bào từ các vùng dịch trên thế giới, cung cấp hoá chất, vật tư, thiết bị phòng chống dịch, đặc biệt đã thực hiện miễn, giảm các loại phí, giá dịch vụ, sản phẩm để ổn định thị trường, hỗ trợ đời sống nhân dân và hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế với tổng giá trị trên 37 nghìn tỷ đồng. Các DNNN trong Khối cũng là những đơn vị đi đầu thực hiện công tác an sinh xã hội theo chủ trương của Đảng, Nhà nước, trong 5 năm 2016-2020 tổng kinh phí hỗ trợ triển khai các chương trình an sinh xã hội, các chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững cho 54/62 huyện nghèo trong cả nước lên tới trên 9 nghìn tỷ đồng.

Các DNNN cũng đồng thời hỗ trợ xây dựng đồng bộ hạ tầng về điện, đường, trường, trạm, mạng lưới viễn thông, hệ thống thủy lợi nội đồng,… góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội ở các địa phương khó khăn, biên giới, hải đảo và cải thiện đời sống nhân dân. Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam tuyển dụng, bảo đảm việc làm, thu nhập ổn định cho hơn 20 nghìn lao động là đồng bào dân tộc thiểu số. Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam tiên phong, chủ lực trong cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn, kinh tế hộ gia đình, đặc biệt là gia đình chính sách, góp phần quan trọng vào thành tựu xoá đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế biển, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của nước ta.

Một số tập đoàn Dầu khí, Điện lực, Cao su, Xăng dầu,… có hoạt động liên quan mật thiết đến quốc phòng, an ninh quốc gia, góp phần giữ vững chủ quyền, an ninh tại các vùng biên giới, vùng biển đảo, đến hoạt động quốc phòng, an ninh. Lực lượng dân quân tự vệ được tổ chức và huấn luyện tốt tại các DNNN cũng có ý nghĩa quan trọng trong tham gia bảo đảm quốc phòng, an ninh, đặc biệt là với các đơn vị đóng chân ở các địa bàn nhạy cảm, phức tạp. Các DNNN cũng giữ vai trò trọng yếu trong bảo đảm an ninh trong các lĩnh vực thiết yếu của đất nước, như: an ninh năng lượng, an ninh lương thực, tiền tệ,… để giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của đất nước.

Trong nhiệm kỳ 2020-2025, Đại hội lần thứ III của Đảng bộ Khối xác định mục tiêu là: Tăng cường xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh; phát huy ý chí, sức mạnh đoàn kết và năng lực đổi mới sáng tạo; tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh thực hiện chủ trương cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả để doanh nghiệp nhà nước giữ vững vai trò nòng cốt và dẫn dắt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phấn đấu đến năm 2025: Các doanh nghiệp nâng cao một bước quan trọng hiệu quả sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh; phấn đấu có 1-2 ngân hàng thương mại nằm trong top 100 ngân hàng lớn nhất về tổng tài sản trong khu vực Châu Á và có ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài; tất cả các ngân hàng thương mại áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn. Các tập đoàn, tổng công ty hoàn thành cơ bản mục tiêu, nhiệm vụ về cổ phần hóa và thoái vốn.

Kính thưa Đại hội,

Đoàn đại biểu Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương nhất trí cao với nội dung các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đặc biệt là các quan điểm về DNNN: “Tiếp tục thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung giữ vững những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế… Nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá. Hình thành đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước chuyên nghiệp, có trình độ cao”.

Ở Việt Nam, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước xuất phát từ lợi ích của đất nước, của nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế nhà nước phát huy tốt vai trò chủ đạo thì kinh tế – xã hội sẽ phát triển nhanh, quốc phòng – an ninh được giữ vững. Một trong những yếu tố quan trọng để đạt được mục tiêu này là tạo cơ chế, chính sách để thúc đẩy DNNN phát triển bền vững. Chỉ khi đó mới nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của DNNN để làm tốt vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong các lĩnh vực kinh tế then chốt, tạo điều kiện để phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.

Tại Đại hội hôm nay, Đoàn đại biểu Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương xin đề xuất với Đảng, Nhà nước một số định hướng, giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy DNNN phát triển bền vững, góp phần bảo đảm tính chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, cụ thể như sau:

(1) Nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng đối với DNNN trong thời gian tới. Nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổ chức đảng, mô hình các tổ chức chính trị – xã hội trong doanh nghiệp. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất là cán bộ chủ chốt doanh nghiệp, nâng cao tính Đảng và ý thức tuân thủ pháp luật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong DNNN đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng.

(2) Sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế pháp luật, tạo khuôn khổ và hành lang pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất để cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Nghiên cứu, rà soát sửa đổi cơ chế quản lý, giám sát và thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người đại diện sở hữu nhà nước, hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát DNNN và vốn, tài sản của nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp một cách rõ ràng hơn, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay, làm cơ sở cho DNNN hoạt động, tận dụng được thế mạnh của các doanh nghiệp lớn, phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của DNNN. Rà soát, xây dựng cơ chế, chính sách hoặc các quy định cụ thể để tách bạch việc thực hiện sản xuất, kinh doanh của DNNN với các hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ công ích Nhà nước đặt hàng cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó thực hiện việc giám sát và đánh giá doanh nghiệp trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh theo đúng chuẩn mực quốc tế và bảo đảm hoạt động kinh doanh của DNNN bình đẳng như các doanh nghiệp khác.

(3) Rà soát và hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp. Tăng cường minh bạch thông tin đối với tất cả các DNNN theo các tiêu chuẩn áp dụng đối với các công ty đại chúng; nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về DNNN; có chế tài xử lý nhằm bảo đảm tính hiệu quả trong việc phối hợp quản lý, sắp xếp doanh nghiệp giữa các bộ, ngành, địa phương. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm toán kịp thời phát hiện các vi phạm, xử lý nghiêm minh đối với các vi phạm tạo sự “răn đe” để nâng cao hiệu quả quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

(4) Kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, có các cơ chế đặc thù để Ủy ban thực sự hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đây là một trong những giải pháp trọng tâm trong việc thay đổi phương thức quản lý vốn nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.

(5) Nghiên cứu việc Thành lập cơ quan thực hiện chức năng đầu tư vốn của Nhà nước vào các DNNN vì việc thực hiện đầu tư và tái đầu tư vào các DNNN sẽ đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, phù hợp kinh nghiệm quốc tế và các quy định của pháp luật.

Thưa toàn thể Đại hội,

Với truyền thống yêu nước, cách mạng, đoàn kết, dân chủ, năng động, sáng tạo, kỷ luật, kỷ cương, vị trí và tầm quan trọng của các DNNN cùng với sự lãnh đạo của Trung ương, sự hỗ trợ, phối hợp của các ban, bộ, ngành, các tỉnh, thành phố và sự giúp đỡ của bạn bè trong nước, quốc tế; Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương sẽ tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, phát huy mọi nguồn lực, quyết tâm xây dựng các doanh nghiệp, ngân hàng, đơn vị phát triển bền vững, giữ vững vị trí then chốt, dẫn dắt nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, đóng góp tích cực xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Thay mặt Đoàn đại biểu Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương, xin kính chúc các đồng chí đại biểu sức khỏe, hạnh phúc.

Chúc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn!